Tra Từ Điển Đạo Phật

Tìm kiếm theo chữ cái

Độc cư

là sống một mình không tiếp xúc với các duyên bên ngoài để bảo vệ và hộ trì sáu căn.Độc cưlà một đức hạnh, một phương pháp tu hành của nhà Phật, để phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Độc cư giúp cho người tu sĩ giữ gìn sáu căn trọn vẹn không tiếp xúc với bất cứ một người nào, nhờ đó mới dễ chứng đạo.

Bắt đầu vào tu, pháp môn tu tập phòng hộ ngũ căn là phải sống độc cư vì có sống độc cư là tu tập được, còn sống độc cư không được là tu tập không được. Người tu sĩ không phòng hộ năm căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thì tâm luôn luôn phóng dật theo sáu trần.

Do tâm phóng dật thì tâm không thanh tịnh được. Nếu muốn tâm không phóng dật thì phải phòng hộ sáu căn cho chặt chẽ nghĩa là phải nghiêm khắc giữ gìn trọn vẹn hạnh độc cư.Người tu sĩ nào giữ gìn hạnh độc cư trọn vẹn là người tu sĩ tu tập có kết quả tốt, còn những vị nào phá hạnh độc cư thì không tu tập được.

Độc cư là một pháp môn phòng hộ sáu căn, chứ không có nghĩa sống một mình như lời giảng dạy của các nhà học giả. Để rèn luyện và trau dồi pháp độc cư thì chúng ta phải có một ý chí kiên cường, một nghị lực dũng mãnh.

Pháp độc cư cũng là pháp môn bí quyết thành tựu viên mãn Tứ Niệm Xứ để thực hiện Tứ Thánh Định để đoạn tận các khổ đau. Độc cư có ba giai đoạn tu tập, đó là ba chuẩn mực: - Giai đoạn thứ nhất, là độc cư thuộc về thân, còn gọi là an trú. Độc cư thuộc về thân thì phải sống một mình nơi thanh vắng, yên tịnh, không thích hội họp, không thích nói chuyện, không thích kết bè, kết bạn, thường an trú nơi thân hành.

br> - Giai đoạn thứ hai, là độc cư thuộc về sáu căn, gọi là phòng hộ sáu căn, còn gọi là hộ trì các căn. Hộ trì các căn tức là dùng pháp như lý tác ý để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý. Độc cư thuộc về sáu căn thì khi đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tác ý nhắc các căn phải quay vào trong thân.

Ví dụ: Mắt phải nhìn bước đi; tai phải lắng nghe bước đi; mũi phải ngửi bước đi; miệng phải cảm vị bước đi; thân phải cảm nhận bước đi; ý phải ý thức từng bước đi.
- Giai đoạn thứ ba, là độc cư thuộc về ý tức độc cư về tâm, còn gọi là độc trú.

Độc cư về tâm thì phải tập luyện giữ gìn tâm vắng lặng, tịch chiếu, nên thường tác ý: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự”. Độc cư về tâm thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ (quét tâm). Tu tập ở giai đoạn nào thì phải giữ gìn độc cư ở giai đoạn đó, đừng ở giai đọan này mà tu tập ở giai đọan khác thì tu sai pháp. Nếu siêng năng tu tập và sống cho đúng Phạm hạnh thì quả vị A La Hán không còn khó khăn nữa.

Độc cư trọn vẹn thì tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Độc Cư là để phòng hộ sáu căn, không không bị sáu trần chi phối, để giúp cho hành giả thực hiện việc sống với chính mình được dễ dàng hơn. Giúp cho hành giả không bị chạy theo tình cảm của người này, người nọ, để tâm hồn được vô tư với mọi người.

Độc cư giúp cho hành giả chuyên chú tâm vào vấn đề tu tập, tư duy bài học, quan sát thân tâm mình được nhất tâm mà không bị sự chi phối của những câu chuyện của những người này, người nọ mang lại hoặc những lời bình phẩm này kia .

. làm cho mình bị phân tâm và sanh ra đủ các ác pháp như tâm nghi ngờ, ngã mạn, sân hận…Vì vậy về hình tướng Độc Cư thì người tu sĩ chỉ ở trong Tiểu giới đàn, tức tự hạn chế trong khu vực mình ở mà không sang thất của người khác để nói chuyện phiếm, để tâm sự, trao đổi… Khi người tu sĩ có duyên sự đi ra ngoài phạm vi của mình (trong Tu Viện) thì không giao tiếp và nói chuyện với bất cứ ai.

Sự độc cư giúp cho hành giả đỡ phiền hà bởi những tâm tư, tình cảm của những người khác tác động và lôi kéo, làm cho tâm trí luôn xao động, hướng ra ngoài và chạy theo “thất tình lục dục”. Do đó càng ít tiếp duyên, càng tốt.

Độc cư là bí quyết của thiền định. Biết Độc cư là bí quyết tu thiền định mà cứ đi nói chuyện với người này, với người khác, không chịu bỏ, đó là người không có nghị lực. Người không có nghị lực làm gì tu thiền định được, làm gì đi theo con của đường giải thoát của Phật giáo được.

Thích nói chuyện với người này người khác là tâm phóng dật. Độc cư tức là giới luật, nhờ giới luật mới ly dục ly ác pháp, mới tu tập thiền định không bị ức chế tâm, không bị rối loạn thần kinh. Độc cư của đạo Phật là giữ gìn tâm không phóng dật, là phòng hộ sáu căn, là pháp xả tâm, ly dục ly ác pháp, là cấm nói chuyện phiếm, chuyện vô ích, tránh xa sự ồn náo, sự ham vui của thế tục. Đạo Phật vốn xả tâm chướng ngại pháp mà thành tựu đạo giải thoát.

Hạnh độc cư là bí quyết xả tâm, nhờ có xả tâm nên mới có thiền định. Độc cư của Phật giáo là thấy từng tâm niệm của mình. Phải biết lúc nào phải độc cư im lặng như thánh, lúc nào độc cư với năm đức hạnh, với đức Tam Quy, với Tám Đức Bát Quan Trai Giới, với mười đức Thập Thiện, với Thập Giới Sa Di, với Định Niệm Hơi Thở, với Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định.

Độc cư trong giai đoạn học giới luật đức hạnh Ngũ Giới thì phải biết im lặng như thánh và bỏ đi khi nghe người khác nói xấu người khác, nói sau lưng người khác, nói lời li gián, nói không thật, nói thêu dệt, v.

... Còn có người hỏi đúng nơi đúng chỗ về đức hiếu sinh thì trả lời và nói về cách thức áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống chứ không được im lặng như thánh và bỏ đi, đấy là sai; phải vui vẻ ôn tồn trả lời với những ái ngữ tôn trọng lời nói của người khác, và có thể mời họ vào nhà khách nói chuyện công khai, đúng pháp, đúng đức hạnh độc cư.

Nói chuyện mà vẫn giữ ý căn và khẩu căn là độc cư, chứ không phải độc câm, vì nói trong giới luật đức hạnh hiếu sinh là nói trong độc cư. Tất cả tu sinh đều nên hiểu rõ đức hiếu sinh và hạnh độc cư để thực hiện vào đời sống cho đúng cách.

Độc cư của ngoại đạo là khi gặp ai hỏi một điều gì cũng đều im lặng và bỏ chạy trốn không dám thấy bóng người, đó là độc hại, độc câm chứ không phải độc cư của Phật giáo.

Gợi ý